Báo Sơn La điện tử - Tin tức cập nhật trong ngày

Trang chủ

Tất cả vì một Việt Nam phồn thịnh

Quyết tâm xây dựng một đất nước Việt Nam phồn thịnh không chỉ phản ánh khát vọng phát triển bền vững, mà còn là cam kết sâu sắc của Đảng trong việc nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho toàn thể nhân dân.

Một góc khu đô thị phía tây Hà Nội. (Ảnh ĐĂNG ANH)
Một góc khu đô thị phía tây Hà Nội. (Ảnh ĐĂNG ANH)

Trong bối cảnh đất nước đang từng bước hội nhập sâu rộng với thế giới, sự phồn thịnh không chỉ được đo lường qua chỉ số kinh tế mà còn thông qua sự công bằng, bao trùm và bình đẳng trong hưởng thụ thành quả phát triển. Đảng đã nhấn mạnh vai trò quan trọng của phát triển kinh tế đi đôi với bảo đảm an sinh xã hội, bảo vệ môi trường và giữ vững ổn định chính trị. Đây không chỉ là một nhiệm vụ chính trị, mà còn là trách nhiệm đạo đức, thể hiện sự đồng hành của Đảng với toàn dân trong hành trình dựng xây đất nước.

Trong quá trình đổi mới và phát triển đất nước, sự phồn thịnh không chỉ đơn thuần là sự giàu có về kinh tế mà còn bao hàm các giá trị tinh thần, xã hội, và văn hóa. Trong đó mọi người dân đều có điều kiện để phát triển toàn diện, bảo đảm đời sống vật chất đầy đủ, tiếp cận các dịch vụ cơ bản như y tế, giáo dục, và có cơ hội tham gia vào các hoạt động kinh tế, văn hóa, xã hội một cách bình đẳng.

Còn không ít khó khăn, thách thức

Việt Nam hiện là một trong những nền kinh tế tăng trưởng nhanh nhất khu vực Đông Nam Á, với tốc độ tăng trưởng GDP trung bình khoảng 6-7%/năm trong giai đoạn trước đại dịch Covid-19.

Năm 2023, GDP của Việt Nam đạt khoảng 411,2 tỷ USD, đứng thứ 4 trong ASEAN, và thu nhập bình quân đầu người ước đạt khoảng 4.110 USD. Để nâng cao mức sống và thu nhập của người dân, Việt Nam đã triển khai nhiều chính sách và chương trình mang lại nhiều hiệu quả tích cực. Chương trình mục tiêu quốc gia về giảm nghèo bền vững đã giảm tỷ lệ hộ nghèo xuống mức thấp kỷ lục. Đặc biệt, nhiều khu vực khó khăn như Tây Nguyên và Tây Bắc đã có sự chuyển biến tích cực.

Nhờ chương trình xây dựng nông thôn mới, nhiều xã đã có đường giao thông nông thôn, trường học đạt chuẩn, và hệ thống y tế được cải thiện. Điều này đã thu hẹp khoảng cách phát triển giữa nông thôn và thành thị. Chính sách hỗ trợ vùng khó khăn đã giúp hàng triệu người dân tiếp cận vốn vay ưu đãi, đất đai, và đào tạo nghề, từ đó cải thiện sinh kế và thu nhập.

Song song với các chính sách phát triển kinh tế-xã hội, quá trình tinh gọn tổ chức bộ máy hệ thống chính trị thời gian qua đã mang lại hiệu quả rõ rệt, góp phần trực tiếp vào mục tiêu nâng cao đời sống nhân dân.

Chỉ tính riêng giai đoạn 2019-2024, cả nước đã giảm từ 705 xuống còn 696 đơn vị hành chính cấp huyện, từ 10.598 xuống 10.035 đơn vị cấp xã; đến tháng 6/2025, theo Nghị quyết số 202/2025/QH15, cả nước chỉ còn 34 đơn vị hành chính cấp tỉnh (28 tỉnh và sáu thành phố trực thuộc Trung ương), đồng thời chính thức chuyển sang mô hình chính quyền địa phương hai cấp từ ngày 1/7/2025.

Ở cấp Trung ương, Chính phủ nhiệm kỳ 2021-2026 đã giảm mạnh đầu mối: Từ 14 bộ và ba cơ quan ngang bộ còn lại, cắt giảm toàn bộ 13/13 tổng cục, hơn 3.300 chi cục (giảm tới 91,7%), đồng thời tinh giản hơn 84.000 biên chế trong giai đoạn 2015-2023. Nhờ đó, ngân sách nhà nước tiết kiệm được khoảng 262.500 tỷ đồng/năm (tương đương 3,8% GDP) - nguồn lực này đang được ưu tiên tái đầu tư cho an sinh xã hội, giáo dục và y tế.

Chính sách miễn giảm học phí năm 2025 với kinh phí 24.000 tỷ đồng đã mang lại lợi ích thiết thực cho hơn 17 triệu học sinh; tỷ lệ bao phủ bảo hiểm y tế hướng tới 98-99% dân số, và mục tiêu miễn viện phí toàn dân đang từng bước được hiện thực hóa.

Những cải cách này không chỉ nâng cao hiệu quả quản trị quốc gia, mà quan trọng hơn, tạo thêm điều kiện để mọi người dân được thụ hưởng công bằng thành quả phát triển, tiến gần hơn tới mục tiêu mà Đại hội XIII của Đảng đã đề ra. Tuy nhiên, sự tăng trưởng kinh tế vẫn chưa thật sự đồng đều, thu nhập giữa các vùng miền và các tầng lớp dân cư vẫn còn sự chênh lệch. Vùng sâu, vùng xa, và các khu vực dân tộc thiểu số vẫn là những nơi chịu nhiều thách thức, với tỷ lệ nghèo cao hơn nhiều lần so với mức trung bình cả nước. Dù đã có nhiều nỗ lực, các khu vực miền núi, vùng sâu, vùng xa vẫn phát triển chậm hơn đáng kể so với đồng bằng và đô thị. Một số chương trình bị đánh giá là phân bổ nguồn lực chưa hợp lý, dẫn đến lãng phí hoặc không đạt được hiệu quả như mong muốn. Một bộ phận người dân thoát nghèo nhưng dễ tái nghèo khi gặp rủi ro, như thiên tai, dịch bệnh, hoặc biến động kinh tế.

Bảo đảm sự công bằng và bền vũng

Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, Việt Nam đối mặt với nhiều cơ hội và thách thức để đạt được thịnh vượng. Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã và đang tạo điều kiện thúc đẩy sự phát triển kinh tế, nâng cao thu nhập, nhưng cũng đòi hỏi phải có những chính sách hiệu quả để bảo đảm sự công bằng và bền vững.

Đảng xác định rằng, công bằng không có nghĩa là phân chia đều mọi nguồn người có cơ hội như nhau trong việc tiếp cận các nguồn lực phát triển, bảo đảm mọi người dân đều được hưởng thành quả của sự phát triển. Điều này bao gồm công bằng về cơ hội học tập, việc làm, chăm sóc y tế, và tham gia vào các hoạt động xã hội.

Đảng cũng đặc biệt chú trọng đến việc giảm bất bình đẳng vùng miền, tầng lớp xã hội và giới tính. Công bằng cần được thực hiện không chỉ trong tiếp cận nguồn lực mà còn trong việc thụ hưởng các dịch vụ cơ bản và quyền lợi xã hội. Mục tiêu là giảm khoảng cách giữa nông thôn và thành thị, giữa miền núi và đồng bằng, đồng thời bảo đảm rằng các nhóm yếu thế trong xã hội được bảo vệ và hỗ trợ. Bình đẳng giữa các tầng lớp nhân dân, các dân tộc, và giới tính là một tiêu chí quan trọng để đo lường sự tiến bộ xã hội. Đặc biệt, trong bối cảnh Việt Nam, bình đẳng còn là sự đồng hành giữa các thành phần kinh tế, giữa khu vực kinh tế nhà nước, tư nhân, và nước ngoài. Môi trường bình đẳng sẽ tạo động lực để các cá nhân, tổ chức phát huy tối đa năng lực, từ đó đóng góp vào sự phát triển chung của đất nước.

Phát triển bền vững là một định hướng chiến lược xuyên suốt trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước. Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định rằng, phát triển bền vững không chỉ là tăng trưởng kinh tế, mà còn bao hàm sự bền vững về xã hội, văn hóa, và môi trường.

Trong lĩnh vực kinh tế, phát triển bền vững đòi hỏi sự cân đối giữa tăng trưởng và bảo vệ tài nguyên, môi trường. Các chính sách kinh tế cần được thiết kế sao cho không chỉ nâng cao năng suất và hiệu quả, mà còn bảo đảm rằng các thế hệ tương lai có đủ nguồn lực để phát triển.

Về xã hội, phát triển bền vững đòi hỏi phải xây dựng một xã hội hài hòa, không có xung đột về lợi ích, bảo đảm quyền con người, và phát huy sức mạnh đoàn kết toàn dân.

Giáo dục, y tế và an sinh xã hội là những lĩnh vực ưu tiên hàng đầu để nâng cao chất lượng cuộc sống và tạo điều kiện cho sự phát triển bền vững. Phát triển bền vững còn yêu cầu một chiến lược dài hạn nhằm bảo vệ hệ sinh thái, giảm tác động của biến đổi khí hậu, và sử dụng hiệu quả các nguồn tài nguyên thiên nhiên. Đảng đã nhấn mạnh rằng, bảo vệ môi trường không chỉ là trách nhiệm của Nhà nước mà còn là nghĩa vụ của toàn xã hội, trong đó người dân đóng vai trò trung tâm.

Xây dựng một xã hội thịnh vượng

Để thực hiện các nguyên tắc nêu trên, Đảng và Nhà nước cần thực hiện đồng bộ các giải pháp chính sách, trong đó tập trung vào việc hoàn thiện hệ thống pháp luật, tăng cường quản lý nhà nước, và thúc đẩy sự tham gia của người dân vào các hoạt động kinh tế-xã hội. Việc xây dựng xã hội thịnh vượng không chỉ đòi hỏi nguồn lực tài chính mà còn cần sự đồng lòng, quyết tâm của toàn dân, cũng như sự lãnh đạo đúng đắn, sáng suốt của Đảng.

Đại hội XIII của Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác định một trong những mục tiêu trọng tâm trong sự nghiệp phát triển đất nước là xây dựng một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, trong đó sự sung túc và giàu có đồng đều là yếu tố nền tảng. Sự phát triển bền vững không thể tách rời việc bảo đảm quyền lợi và phúc lợi của mọi người dân, vì chỉ khi các tầng lớp xã hội cùng tiến bộ, đất nước mới có thể phát triển một cách toàn diện, lâu dài và hài hòa.

Đại hội XIII đã nhấn mạnh rằng, phát triển kinh tế phải đi đôi với tiến bộ và công bằng xã hội, coi đó là yếu tố quyết định để duy trì ổn định chính trị, xã hội. Khi các nhóm dân cư, từ nông thôn đến thành thị, từ miền núi đến đồng bằng, đều được hưởng lợi từ sự phát triển kinh tế, sẽ góp phần tạo nền tảng cho một xã hội hòa hợp và ổn định. Ngược lại, nếu sự giàu có và sung túc chỉ tập trung vào một số ít người hoặc khu vực nhất định, khoảng cách giàu nghèo gia tăng sẽ dẫn đến những mâu thuẫn xã hội nghiêm trọng. Điều này có thể gây bất ổn, làm suy yếu niềm tin của nhân dân vào chính quyền và làm chậm lại tiến trình phát triển bền vững của đất nước. Vì vậy, việc phân bổ nguồn lực công bằng và tạo cơ hội bình đẳng cho mọi người là điều kiện tiên quyết để duy trì sự ổn định.

Bên cạnh đó, cần tăng cường hiệu quả phát triển kinh tế và sử dụng nguồn lực. Một xã hội mà mọi người đều có cơ hội phát triển kinh tế sẽ tối ưu hóa việc sử dụng các nguồn lực. Khi mọi người dân, từ người lao động phổ thông đến doanh nhân, đều có điều kiện để phát triển khả năng của mình, nền kinh tế sẽ trở nên năng động và hiệu quả hơn.

Đại hội XIII khẳng định vai trò của Nhà nước trong việc thúc đẩy công bằng xã hội thông qua các chính sách kinh tế vĩ mô. Chẳng hạn, đầu tư vào hạ tầng cơ sở ở các vùng khó khăn không chỉ mang lại cơ hội phát triển cho những khu vực này mà còn giúp tăng cường sự kết nối, tạo điều kiện cho toàn bộ nền kinh tế vận hành trơn tru hơn. Bằng cách này, các nguồn lực của đất nước không bị lãng phí, đồng thời năng suất lao động được cải thiện, đóng góp vào sự tăng trưởng bền vững.

Bảo đảm sự sung túc và giàu có đồng đều cũng là yếu tố quan trọng để củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Quan điểm của Đại hội XIII nhấn mạnh rằng, sức mạnh của đất nước nằm ở sự đồng lòng, nhất trí của toàn dân. Một xã hội mà mọi người đều cảm thấy được tôn trọng, được bảo đảm các quyền lợi cơ bản và có cơ hội phát triển sẽ tạo nên một cộng đồng đoàn kết, cùng chung tay xây dựng đất nước.

Ngược lại, nếu bất bình đẳng gia tăng, sự phân hóa giàu nghèo sẽ dẫn đến tâm lý bất mãn, chia rẽ, và xung đột lợi ích. Điều này không chỉ ảnh hưởng tiêu cực đến phát triển kinh tế mà còn làm suy yếu sự gắn kết trong cộng đồng. Vì vậy, việc bảo đảm sự đồng đều trong hưởng thụ thành quả phát triển là yếu tố then chốt để duy trì sự thống nhất và đồng thuận xã hội, từ đó tạo nền tảng vững chắc cho sự phát triển bền vững.

Một đất nước phát triển bền vững không chỉ được đánh giá qua chỉ số GDP mà còn qua chất lượng cuộc sống của người dân. Khi mọi tầng lớp trong xã hội đều có cuộc sống sung túc, được tiếp cận với các dịch vụ giáo dục, y tế, và cơ hội nghề nghiệp, năng lực cạnh tranh quốc gia sẽ được nâng cao.

Một xã hội ổn định, công bằng sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho Việt Nam tham gia các hiệp định thương mại, hợp tác quốc tế, và thúc đẩy vai trò của mình trên trường quốc tế. Điều này không chỉ nâng cao vị thế của đất nước mà còn góp phần xây dựng hình ảnh Việt Nam như một quốc gia phát triển, hòa bình, và có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế.

Đại hội XIII của Đảng Cộng sản Việt Nam đã đề ra định hướng chiến lược cho sự phát triển của Việt Nam trong giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2045. Các định hướng chiến lược này là kim chỉ nam để hiện thực hóa mục tiêu đưa Việt Nam trở thành quốc gia phát triển, có thu nhập cao, và thực hiện khát vọng dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

Những định hướng chiến lược nêu trên của Đại hội XIII không chỉ phản ánh tầm nhìn dài hạn của Đảng Cộng sản Việt Nam, mà còn là lời khẳng định quyết tâm đưa đất nước phát triển bền vững, hiện đại, và hội nhập quốc tế. Đây là nền tảng quan trọng để hiện thực hóa khát vọng “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.

Việc từng bước thực hiện mục tiêu để toàn thể nhân dân cùng sung túc, cùng giàu có là một nhiệm vụ chiến lược, có ý nghĩa sâu sắc đối với sự phát triển bền vững của đất nước. Qua những chính sách và chương trình phát triển toàn diện, từ việc xây dựng nền tảng văn hóa, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đến bảo vệ môi trường và phát triển kinh tế đồng đều, Việt Nam đã đạt được những bước tiến quan trọng.

Tuy nhiên, để đạt được mục tiêu này, cần tiếp tục cải cách mạnh mẽ, khắc phục những bất cập trong phân phối tài nguyên, thu nhập và cơ hội phát triển. Bảo đảm công bằng xã hội, không để ai bị bỏ lại phía sau, đồng thời phát huy sức mạnh của cả cộng đồng, từ các vùng sâu, vùng xa đến các đô thị lớn, sẽ là chìa khóa giúp Việt Nam vươn tới một tương lai thịnh vượng, với toàn thể nhân dân được hưởng lợi từ thành quả phát triển chung.

Theo Báo Nhân dân
BÌNH LUẬN

Bạn còn 500/500 ký tự

Bạn vui lòng nhập từ 5 ký tự trở lên !!!

Tin mới