Giữa đại ngàn mây phủ, nơi những triền núi cao của các xã Tà Xùa, Háng Đồng, Làng Chếu... của huyện Bắc Yên, những cây chè Shan tuyết cổ thụ hàng trăm năm tuổi vẫn vươn mình đón sương núi, đọng tuyết ngàn. Mỗi búp chè là kết tinh của đất trời, của bàn tay người vùng cao cần mẫn, chắt chiu để tạo nên món quà đậm hương - đượm vị - đầy tự hào, mang thương hiệu "Chè Tà Xùa Bắc Yên".

Giữ hồn chè cổ giữa đại ngàn
Hiện nay, huyện Bắc Yên có trên 420 ha chè Shan tuyết đang cho thu hoạch, trồng tập trung tại xã Tà Xùa, Háng Đồng và Làng Chếu. Từ năm 2016 đến nay, UBND huyện đã hỗ trợ 535 hộ ở các xã trồng mới bằng giống chè Shan tuyết với diện tích trên 316 ha.
Ở độ cao trung bình 1.500 - 2.000 m so với mực nước biển, những cây chè Shan tuyết cổ thụ tập trung tại các xã Tà Xùa, Háng Đồng, Làng Chếu trường tồn giữa thiên nhiên khắc nghiệt, vẫn vươn mình trong giá lạnh, mây mù. Chất đất và khí hậu tạo nên một hương vị chè đặc biệt thơm ngon không nơi nào có được. Chè Shan tuyết Bắc Yên đã trở thành đặc sản nổi tiếng, mang theo kỳ vọng xóa đói giảm nghèo, phát triển cùng du lịch và bản sắc văn hóa vùng cao.
Chè cổ nơi đây không mọc theo hàng lối, mà nằm rải rác trong rừng tự nhiên, có cây cao tới 5 m, đường kính thân tới 40 cm, tuổi đời từ 100 - 200 năm. Điển hình như những gốc chè cổ thụ ở bản Chống Tra, xã Háng Đồng, mọc cheo leo trên đỉnh núi U Bò, nơi phải cuốc bộ cả buổi mới tới, là “báu vật sống” của núi rừng. Đặc biệt, năm 2019, có 200 cây chè tại bản Bẹ, xã Tà Xùa, đã được công nhận là cây di sản Việt Nam, đã trở thành biểu tượng của cả một vùng chè cổ.


Anh Mùa A Sềnh ở bản Bẹ, xã Tà Xùa có tới 30 cây chè cổ thụ trên 100 năm tuổi, anh Sềnh cho biết: Chè này không phải của riêng nhà mình, mà là của rừng, của cả bản. Chè cổ đã được công nhận cây di sản, tôi rất vinh dự và càng giữ gìn tốt hơn.
Để làm ra một cân chè Shan tuyết thương hiệu Bắc Yên thượng hạng, phải trải qua ít nhất ba công đoạn, gồm: Thu hái đúng kỹ thuật, chế biến kỳ công và bảo quản chặt chẽ. Mỗi khâu đều đòi hỏi sự tỉ mỉ, kinh nghiệm và cả tâm huyết của người làm chè. Thu hái phải vào sáng sớm, khi sương còn vương trên búp. Chỉ chọn búp non hoặc 1 tôm 1 lá, thậm chí chỉ lấy 1 tôm để đảm bảo chè có chất lượng ngon hơn. Tuyệt đối không ngắt quá tay để tránh tổn hại cành. Sau đó, chè được sao bằng tay hoặc máy sao mi ni, vò kỹ bằng phương pháp truyền thống để giữ tuyết trắng trên búp, rồi hong khô tự nhiên.

Anh Mùa A Hồ, Chủ tịch UBND xã Tà Xùa, cho biết: Cả xã có 341 hộ trồng chè, diện tích 285 ha, trong đó 194 ha cho thu hoạch. Chè Tà Xùa chủ yếu là Shan tuyết. Năm 2024, chè đã được cấp nhãn hiệu chứng nhận Chè Tà Xùa Bắc Yên. Người dân thường xuyên được tập huấn kỹ thuật, bảo vệ môi trường tốt, không xảy ra phá rừng trồng chè hay xả thải. Một số mô hình du lịch cộng đồng gắn với chè hoạt động hiệu quả, như: Homestay A Châu, Thào Coffee (bản Tà Xùa) và Nhà H’Mông Shan tuyết (bản Bẹ), kết hợp trải nghiệm, quảng bá sản phẩm chè.
Còn anh Hạng A Thông, Bí thư chi bộ, Trưởng bản Làng Sáng, xã Háng Đồng, là người gắn bó với cây chè nhiều năm nay. Anh Thông cho biết: Mỗi mẻ chè từ sao đến vò mất cả buổi. Chè hơi chát, vị ngọt đầu lưỡi và có chút mùi khói nhẹ là chuẩn. Ai không quen thì chịu không nổi hơi nóng, nhưng làm quen rồi thì mê hương chè lắm.
Ngát hương chè Tà Xùa
Từ chỗ chè chỉ là thức uống gia đình, ngày nay cây chè Shan tuyết đã trở thành sản phẩm hàng hóa chủ lực, góp phần giảm nghèo cho hơn 520 hộ dân trồng chè trên địa bàn. Giá chè khô dao động từ 400.000 - 500.000 đồng/kg, cao gấp 8-10 lần chè thường. Một số sản phẩm đặc biệt từ chè có thể lên tới cả vài triệu đồng/kg, tùy mùa vụ. Thu nhập bình quân đạt 100 triệu đồng/ha/năm, lãi khoảng 70 triệu đồng. Từ năm 2021 đến nay, riêng xã Tà Xùa đã có 68 hộ thoát nghèo nhờ chè.

Bà Dương Thị Lan Hương, Trưởng phòng Nông nghiệp và Môi trường huyện Bắc Yên, cho biết: Năm 2021, Công ty TNHH Trà và Đặc sản Tây Bắc (TAFOOD) đã đầu tư xây dựng nhà máy chè mới tại bản Bẹ, xã Tà Xùa. Tổng diện tích sử dụng khu sản xuất và giới thiệu sản phẩm 1.000 m2, khu trải nghiệm và lưu trú 1.000 m2. Công suất chế biến 7-10 tấn chè búp tươi/ngày với quy mô diện tích đang khai thác 108 ha. Tạo việc làm thường xuyên cho 16 lao động, trong đó có 10 người dân tộc thiểu số. Cùng với đó, huyện hỗ trợ thành lập các HTX chè, truy xuất nguồn gốc, xây dựng nhãn hiệu, phát triển sản phẩm OCOP. Tính đến năm 2024, huyện đã có 5 sản phẩm chè đạt chuẩn OCOP từ 3 đến 4 sao.

Anh Mùa A Lệnh, Giám đốc HTX Nông nghiệp và Bảo tồn văn hóa dân tộc - Pla, xã Tà Xùa, cho biết: 17 hộ dân bản Tà Xùa đã liên kết thành lập hợp tác xã, trồng hơn 18 ha chè theo hướng hữu cơ. Các thành viên vẫn giữ nghề sao chè thủ công, tạo hương vị đặc trưng. Sản phẩm Trà Sương tuyết cổ thụ truyền thống của HTX đã đạt OCOP 3 sao và luôn “cháy” hàng.
Chè Shan tuyết giờ đây đã vượt qua khỏi bản làng, góp mặt ở Thủ đô Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh và dần hiện diện trên các sàn thương mại điện tử, mở ra cánh cửa hội nhập cho nông sản đặc hữu vùng cao.
Giữ rừng – Giữ chè – Giữ bản sắc
Vừa mang giá trị kinh tế, chè Shan tuyết còn gắn liền với văn hóa tâm linh và trách nhiệm môi trường. Chè cổ chỉ sống tốt trong rừng nguyên sinh, nghĩa là giữ chè cũng là giữ rừng. Nhờ có chính sách chi trả dịch vụ môi trường rừng, người dân càng thêm động lực bảo vệ rừng, bảo vệ cây. Anh Hạng A Thông, Bí thư chi bộ, Trưởng bản Làng Sáng, xã Háng Đồng, chia sẻ: Trồng chè mà phá rừng là mất hết. Giờ nhà nào cũng giữ cây, không ai chặt. Cây chè quý như con trâu, con bò vậy.

Sự giao thoa giữa kinh tế - sinh thái - văn hóa đang khiến cây chè Shan tuyết Bắc Yên trở thành sản phẩm đặc thù “3 trong 1” có thể khai thác lâu dài và bền vững nếu biết phát triển đúng hướng.
Anh Mùa A Hồ, Chủ tịch UBND xã Tà Xùa, cho biết thêm: Những năm gần đây, nhờ sự tuyên truyền, hướng dẫn kỹ thuật của các cấp, cùng với sự phát triển của khoa học công nghệ và du lịch, việc tiêu thụ sản phẩm chè ngày càng thuận lợi. Cây chè cổ thụ mang lại thu nhập ổn định, giúp người dân nâng cao nhận thức, chú trọng chăm sóc, cải tạo vườn chè để tăng giá trị kinh tế.
Tại xã Tà Xùa, chính quyền đã phối hợp với Hạt Kiểm lâm và Trung tâm Dịch vụ nông nghiệp huyện đẩy mạnh tuyên truyền, vận động người dân bảo vệ rừng, thu gom bao bì thuốc bảo vệ thực vật sau sử dụng. Địa phương không xảy ra tình trạng phá rừng trồng chè hay xả thải bừa bãi gây ô nhiễm môi trường.

Phát triển chè Shan tuyết Bắc Yên vẫn còn đó những thách thức, do nhiều bản bà con còn chưa quan tâm nhiều đến khâu chăm sóc, thu hái đúng kỹ thuật. Thị trường tuy mở nhưng chưa đồng đều, sức cạnh tranh còn thấp. Huyện Bắc Yên đã triển khai nhiều giải pháp, như: Quy hoạch vùng chè cổ gắn với du lịch cộng đồng tại Bản Bẹ, xây dựng mô hình “bản chè di sản”. Hỗ trợ người dân cải tạo cây chè, tập huấn kỹ thuật hữu cơ. Thu hút doanh nghiệp lớn đầu tư, phát triển thương hiệu, xúc tiến thương mại. Ứng dụng công nghệ số vào truy xuất nguồn gốc, quảng bá sản phẩm chè Shan tuyết ra thị trường quốc tế.
Cây chè Shan tuyết Bắc Yên vừa là cây trồng hiệu quả, vừa là bản sắc của đồng bào dân tộc Mông ở Bắc Yên. Đây là hướng đi chiến lược, vừa giữ rừng, vừa giúp dân làm giàu, vừa tạo ra sản phẩm du lịch đặc sắc.
Bạn còn 500/500 ký tự
Bạn vui lòng nhập từ 5 ký tự trở lên !!!