Giữa đại ngàn khu rừng đặc dụng Tà Xùa, xã Háng Đồng, huyện Bắc Yên, sương mù dày đặc gần như quanh năm, có bản Làng Sáng của đồng bào dân tộc Mông với 110 hộ sinh sống. Đây là một trong những bản vùng cao xa xôi của tỉnh Sơn La, dẫu vậy, vượt qua muôn vàn gian khó, những giáo viên nơi đây vẫn bám bản, bám lớp, lặng lẽ mang tri thức đến với trẻ em.

Từ trung tâm xã Háng Đồng, vượt qua hơn 20 km đường đèo dốc, ngoằn ngoèo vắt ngang những dãy núi cao vút, chúng tôi đến bản Làng Sáng, nằm trong vùng lõi của rừng đặc dụng Tà Xùa. Thầy giáo Đỗ Văn Tảo, Phó Hiệu trưởng Trường Tiểu học và THCS Háng Đồng, làm “hoa tiêu” dẫn đường. Mặc dù đường vào Làng Sáng đã đổ bê tông, nhưng địa hình phức tạp và qua mùa mưa đã làm một số đoạn sạt lở, bùn đất tràn xuống mặt đường, chỉ cần sơ sẩy là có thể xe lao xuống vực sâu.,.
Sau gần 2 tiếng đồng hồ, chúng tôi đến trung tâm bản Làng Sáng, nơi có điểm trường tiểu học và mầm non nằm lẩn khuất trong đám sương mù. Thầy giáo Hoàng Ngọc Dung, giáo viên tiểu học cắm bản nói: Mùa đông ở đây lạnh lắm, nhiều khi sương mù dày đặc, tầm nhìn chưa đến 5 mét. Từ Tết trời liên tục mưa và sương mù phủ kín, hôm nay, trời mới hửng nắng. Quần áo phơi mãi không khô, trời thì rét buốt. Nhìn học trò háo hức đến lớp, chúng tôi lại có động lực tiếp tục bám trường, bám lớp.

Hiện nay, điểm trường tiểu học có hai lớp 1 và 2 với 54 học sinh. Các học sinh từ lớp 3 trở lên, được nhà trường đưa về học ở trung tâm xã để hưởng các chế độ ưu đãi khác. Học sinh tiểu học ở Làng Sáng học cả ngày, mặc dù điểm trường không có ăn bán trú, nhưng do nhà xa nên các em tự mang cơm trưa đến lớp rồi ngủ lại tại lớp để chiều học tiếp. Nhiều lúc, các thầy giáo thấy bữa trưa của các em chỉ có cơm trắng, đã tự nấu thêm thức ăn cho các em.
Thầy Lường Văn Dương, nhà ở huyện Phù Yên, là một trong 3 giáo viên dạy học ở đây. Thầy Dương tâm sự: Tôi dạy học ở Làng Sáng, vợ tôi là giáo viên mầm non dạy ở bản Háng Đồng B. Con tôi đang học mẫu giáo nhỡ, nhưng do đường đi lại không thuận tiện, khí hậu khắc nghiệt nên vợ chồng phải gửi bà ngoại trông. Cuối tuần mới về thăm con, khi trời mưa thì 2 tuần mới về thăm con được. Mỗi lần lên bản, tôi mang thực phẩm cho cả tuần, thậm chí mang nhiều hơn để nấu cho học sinh và phòng thời tiết xấu.

Hơn 33 năm trong nghề, là ngần ấy thời gian thầy Đỗ Văn Tảo gắn bó với việc dạy chữ trên non cao, nên thầy hiểu tường tận mọi khó khăn của bà con. Thầy Tảo chia sẻ: Sau 10 năm tăng cường tuyên truyền, vận động của giáo viên, giờ đây, không còn học sinh bỏ học, phụ huynh cũng quan tâm đến việc học của con em mình. Nhất là, bố mẹ không còn mặc kệ con cái đi bộ về, bất chấp những nguy hiểm trong rừng, mà đã biết đến đón con mình mỗi khi tan trường. Đấy là thành công lớn nhất của những người gieo chữ ở vùng cao, khi đã làm thay đổi nhận thức của các bậc phụ huynh về việc học cho con trẻ.

Bên cạnh đó, khó khăn nữa của giáo viên vùng cao là dạy tiếng Việt cho trẻ. Mặc dù giáo viên nỗ lực dạy trên lớp, nhưng khi về nhà các em chỉ giao tiếp bằng tiếng dân tộc. Thầy Tảo cho biết thêm: Nhà trường đã triển khai tăng cường tiếng Việt 3 năm qua, mặc dù vẫn còn nhiều hạn chế trong tiếp cận tiếng Việt, nhưng vốn tiếng phổ thông của các em đã khá hơn rất nhiều. Ngoài ra, chỉ đạo giáo viên thường xuyên theo sát, nhắc nhở học sinh nói tiếng phổ thông ở trên lớp. Đồng thời, vận động phụ huynh giao tiếp tiếng Việt với các em khi về nhà.

Thăm điểm trường mầm non, nằm cách lớp tiểu học vài chục bước chân. Vừa chuẩn bị bữa trưa cho trẻ, cô giáo Thào Thị Lý, quê tận Hà Giang, lấy chồng ở Bắc Yên, vừa nói: Do cuộc sống của bà con còn nghèo, nên trẻ ở đây thiệt thòi lắm. Các em không có đủ đồ dùng học tập, áo ấm không đủ mặc trong mùa đông giá rét. Có điều các em rất ngoan, ngày nào cũng đến lớp.
Điểm trường mầm non có 3 lớp, 68 học sinh, có 3 giáo viên cắm bản và 1 người phụ trách nấu ăn cho các cháu. Do thiếu người, công việc nhiều, nên các cô giáo cùng tham gia nấu ăn cho trẻ. Cô giáo Lò Thị Tiện, nhà ở trung tâm huyện Bắc Yên, phụ trách dạy lớp bé. Cô Tiện nói: Đây là lớp khó khăn nhất, vì các cháu còn nhỏ, việc chỉ dạy cho các cháu đòi hỏi sự kiên trì. Hiện nay, quần áo và bữa ăn trưa của điểm trường đang được Chương trình “Nuôi em Mộc Châu” hỗ trợ, giúp trẻ em có bữa ăn ngon hơn.
.jpg)
Cũng giống như các lớp tiểu học, cô và trò mầm non phải học tiếng của nhau để giao tiếp tốt hơn. Cô giáo Mùa Thị Sai, Phó hiệu trưởng Trường Mầm non Hoa Đào, xã Háng Đồng, tâm sự: Những giáo viên cắm bản vùng cao không chỉ dạy chữ, mà đã trở thành cha, mẹ thứ hai của học trò, chăm lo từng bữa ăn, giấc ngủ. Nhiều khi, chúng tôi sẵn sàng trích tiền lương để mua sách vở, áo ấm, đồ chơi, đồ dùng học tập... giúp các cháu có điều kiện học tập tốt hơn.
Dẫu còn đó muôn vàn khó khăn, nhưng sự tận tâm của thầy giáo, cô giáo cắm bản vùng cao vẫn ngày ngày lặng thầm bám bản, bám lớp, mang tri thức lên non, giúp nhiều thế hệ học trò Làng Sáng biết đọc, biết viết. Họ chính là những “ngọn đèn” giữa núi rừng Tây Bắc, thắp lên hy vọng cho bao thế hệ học trò nơi vùng cao Sơn La.
Bạn còn 500/500 ký tự
Bạn vui lòng nhập từ 5 ký tự trở lên !!!